"Bệnh hám
danh"...
"Đại dịch PGS-TS-BS.. .Nó là biểu hiện của căn bệnh mới phát sinh trong
ngành y. Đó là bệnh hám danh.
Bệnh hám danh đang làm tan nát hệ thống y khoa và đang biến hóa thành một đại dịch
nguy hiểm cho người bệnh"
Đại dịch PGS-TS-BS
Đại dịch PGS-TS-BS
Chỉ
có ở nước Nam
dưới thời XHCN. Nó là biểu hiện của căn bệnh mới phát sinh trong ngành y. Đó
là bệnh hám danh. Bệnh hám danh đang làm tan nát hệ thống y khoa và đang biến
hóa thành một đại dịch nguy hiểm cho người bệnh.
Có mấy ai còn nhớ đến thầy Phạm Biểu Tâm, thầy Trần Ngọc Ninh? Thầy Phạm Biểu Tâm
có sống lại bây giờ không thể là hiệu trưởng trường y. Thầy Trần Ngọc Ninh có ở
Việt Nam giờ này cũng không bao giờ thành khoa trưởng, chứ nói gì đến chức danh
giáo sư.
Cả hai thầy đều không có bằng tiến sĩ. Cái bằng tiến sĩ ngày nay ở đất nước này
là một cái bùa hộ mệnh. Nó cũng là cái vé xe cho những chuyến xe đò thăng quan tiến
chức. Nó là cái boarding pass cho những phi vụ làm trưởng khoa, làm hiệu trưởng
trường y. Đó là luật chơi mới do những người cách mạng đặt ra.
Người cách
mạng không nhất thiết phải là người trong y giới, cũng chẳng cần làm khoa học.
Nhưng họ có giá trị hơn nhà khoa học. Bài giảng của người cách mạng có giá hơn
bài giảng của giáo sư tiến sĩ. Ở đất nước này, chính trị thống lĩnh tất cả.
Làm cách mạng là làm chính trị. Bởi vậy, người cách mạng chẳng cần phải có tấm bằng
bác sĩ để đặt ra luật chơi mới cho ngành y.
Họ đang hủy hoại nền y
học.
Tuần rồi đi dự một hội
thảo chuyên đề và gặp một anh bạn đồng môn trên bàn cà phê. “Ủa, ông chưa tiến
sĩ hả? Sao không làm một cái”? Anh bạn tôi hỏi. Tôi ngạc nhiên về chuyện làm
một cái. Tiến sĩ là một cái gì như đồ chơi. Tôi lắc đầu. Mình đã già.
Mình không có khả năng làm nghiên cứu. Cũng chẳng có thầy đỡ đầu.
Anh bạn tôi cười lớn nói: Ông mà già gì, đâu cần khả năng làm nghiên cứu, cũng không
cần thầy hướng dẫn, chỉ cần bỏ tiền ra mua thôi.
Tôi cám ơn tấm lòng của bạn cũ và vẫn thấy mình vui với việc giúp người mà không có những râu ria trước tên mình. Bạn cũ tôi bây giờ là một PGS-TS-BS.
Tôi cám ơn tấm lòng của bạn cũ và vẫn thấy mình vui với việc giúp người mà không có những râu ria trước tên mình. Bạn cũ tôi bây giờ là một PGS-TS-BS.
TS-BS bây giờ
nhan nhản trong các bệnh viện. Thử dạo một vòng các phòng trong bệnh viện ngoài
Hà Nội, sẽ thấy trước cửa phòng ai cũng có danh xưng TS-BS in ngay chính giữa
cửa phòng. Bảng hiệu đó cho chúng ta biết người đang ngự trị hoặc chiếm lĩnh
căn phòng là một bác sĩ và có bằng tiến sĩ. Bằng tiến sĩ là học vị cao nhất
trong thế giới khoa bảng. Tôi không có con số thống kê để nói, nhưng tôi cảm
thấy số bác sĩ có danh hiệu TS-BS nhiều hơn bác sĩ trong các bệnh viện Hà Nội.
Sài Gòn đang
đuổi theo Hà Nội, sắp đến đích nay mai. Với đà này,một ngày không xa bệnh nhân
sẽ không còn gặp bác sĩ nữa, họ chỉ gặp TS-BS.
PGS-TS-BS xuất hiện ngày
càng dày đặc trong các hội thảo. Nhìn lên bàn chủ tọa chúng ta thấy gì? Có hoa
tươi. Có chai nước lọc. Có laptop. Có microphone.và, có tấm bảng nền trắng chữ
đen in những từ viết tắt nhưPGS-TS-BS. Hoa tươi để làm màu mè. Chai nước
lọc vì trí thức không quen uống nước máy sợ nhiễm khuẩn. Laptop để nói rằng ta
đây có trình độ IT. Microphone để truyền bá lời vàng ý ngọc. Danh hiệu PGS-TS-BS để
khoe thành tựu miệt mài làm khoa học. Một bức tranh đầy hoa sắc, màu mè. Có
phần phần cứng (IT, microphone) lẫn phần mềm (hoa, trí lực, bằng cấp).
Danh và thực lúc nào cũng
là hai khía cạnh nhức nhối trong y giới. Bao nhiêu tiến sĩ của nước ta là do
thực tài, bao nhiêu là giả, dỏm. Không ai biết được, nhưng xã hội biết.
Xã hội đã từ lâu phong danh tước “tiến sĩ giấy”cho những kẻ bất tài,
hám danh, mua quan bán tước. Cụm từ “Tiến sĩ giấy” ngày càng xuất hiện nhiều
trên báo chí, trong những câu chuyện thường ngày. Tức là xã hội biết
rằng ngày nay chúng ta có nhiều tiến sĩ dỏm hơn là tiến sĩ thực.
Dỏm có nghĩa là những
bằng cấp được mua bán, tiền trao cháo múc. Anh bạn tôi vừa đề cập trên đây
không ngần ngại nói rằng để có cái bằng tiến sĩ, anh phải chi ra nhiều tiền.
Hỏi bao nhiêu, anh chỉ cười. Nhưng xã hội biết. Những cái giá 5.000 USD, 10.000
USD, 20.000 USD đã được đề cập đến. 100 triệu đồng. 200 trăm triệu đồng. 400
triệu đồng. Có khi 500 triệu. Có nhiều lò sản xuất văn bằng tiến sĩ và mỗi lò
có biểu giá riêng. Quân y nổi tiếng là một trong những lò đào tạo đắt tiền. Các
trường y thì rẻ hơn nhưng không rẻ bao nhiêu. Nhiều đồng nghiệp tôi mua bằng
như thế. Đó là những con số chóng mặt cho bệnh nhân nghèo.
Ai trả tiền? Xin thưa không phải bác sĩ, mà là bệnh nhân. Họ sẽ ăn tiền các
hãng dược. Hãng dược nâng giá thuốc. Bệnh nhân là người cuối cùng trong vòng
tròn này. Bệnh nhân lãnh đủ. Vì thế, mua bán bằng cấp là một trong những yếu tố
làm cho giá thuốc cao đến mức “cắt cổ” như ở nước ta.
Những kẻ hám danh và bất tài xem chuyện mua bằng tiến sĩ là một đầu tư. Họ có thể chi ra vài trăm triệu hôm nay, nhưng nay mai thì sẽ được chức quyền. Trường khoa. Giám đốc bệnh viện. Hiệu trưởng. Tất cả đều mua, đều chạy.
Những kẻ hám danh và bất tài xem chuyện mua bằng tiến sĩ là một đầu tư. Họ có thể chi ra vài trăm triệu hôm nay, nhưng nay mai thì sẽ được chức quyền. Trường khoa. Giám đốc bệnh viện. Hiệu trưởng. Tất cả đều mua, đều chạy.
Một khi đã ngồi vào vị trí quyền lực, họ ra sức vơ vét tiền của người dân để trả
lại chi phí mua bằng, mua chức vụ. Người dân cũng chính là đối tượng sau cùng
trong đường dây này. Đừng trách tại sao dân mình nghèo vẫn hoàn nghèo. Cái cơ
chế này làm cho họ nghèo. Đã nghèo thì thường chịu phận hèn. Cái cơ chế này làm
cho người dân vừa nghèo và vừa
hèn.
hèn.
Dỏm có nghĩa là làm nghiên cứu ma, giả tạo số liệu. Báo chí đã nêu nhiều vấn đề
đạo văn. Nhưng báo chí không hề biết những chuyện động trời hơn đạo văn. Đó là chuyện
giả tạo số liệu.
Những tiến sĩ dỏm chẳng bao giờ làm nghiên cứu cho tốn công. Họ chỉ ngồi đâu đó giả tạo ra số liệu. Có người làm nghiên cứu nghiêm túc, nhưng khi kết quả không đúng ý, họ sửa số liệu.Chẳng ai hay biết. Thầy cô hướng dẫn chỉ là những người mù vì bất tài, hoặc giả mù vì họ đã ăn tiền.
Những tiến sĩ dỏm chẳng bao giờ làm nghiên cứu cho tốn công. Họ chỉ ngồi đâu đó giả tạo ra số liệu. Có người làm nghiên cứu nghiêm túc, nhưng khi kết quả không đúng ý, họ sửa số liệu.Chẳng ai hay biết. Thầy cô hướng dẫn chỉ là những người mù vì bất tài, hoặc giả mù vì họ đã ăn tiền.
Giả tạo số liệu xong, họ
mướn một người nào đó làm phân tích thống kê. Giá phân tích cũng không rẻ chút nào,
từ 500 USD đến 2000 USD. Có cậu nọ nay làm chức cao trong trường y từng làm
phân tích mướn như thế. Chẳng cần biết đúng sai vì chính người làm mướn cũng mù
mờ mà cũng chẳng quan tâm.
Phân tích xong, họ mướn người viết luận án. Giá viết cũng từ 500 USD đến 2000 USD.
Người viết chỉ cần có bằng cử nhân cũng viết được. “Viết” ở đây có nghĩa là cắt
và dán. Hỏi google, dịch, cắt, dán. Vâng, luận án là
dịch-cắt-dán. Thế là xong luận án. Thầy dỏm thì làm sao biết được đó là luận
án thật hay dỏm.
Có thể nói rằng đại đa số những nghiên cứu khoa học ở nước ta hiện nay đều làm theo
quy trình như thế. Không có đạo đức khoa học. Không có tinh thần khoa
học. Đừng nói đến văn hóa khoa học. Đọc những lời tâm huyết có khi mang
tính hô hào của Gs Tuấn về nghiên cứu khoa học mà tôi thấy tội nghiệp cho ông.
Ông đâu biết rằng ở trong nước người ta đâu có quan tâm đến nghiên cứu, những
lời ông nói ra chỉ là nước đổ đầu vịt mà thôi, chẳng ai nghe đâu.
Dỏm có nghĩa là làm nghiên cứu chất lượng còn thấp hơn luận văn cử nhân của các
thầy trước 1975. Nếu có dịp đọc những luận án tiến sĩ của các bác sĩ, người có kiến
thức không biết nên cười hay nên khóc. Cười vì những đề tài nghiên cứu như là
đề tài của sinh viên học làm nghiên cứu. Khóc vì trình độ thấp đến mức thê thảm.
Những đề tài nghiên cứu kinh điển mà thế giới đã làm từ ngày tôi còn ngồi trong
trường y cũng được biến hóa thành đề tài tiến sĩ. Có đề tài đánh giá phẫu thuật
nội soi mà người đánh giá cũng chính là người thực hiện. Không có cái gì là
mới. Không có cái gì để gọi là khoa học. Số liệu đã giả thì làm sao có kết quả
thật được.
Bản thân thầy hướng dẫn chẳng hiểu tường tận vấn đề thì làm sao có được đề tài mới.
Họ để cho trò tự “bơi”. Bơi bằng cách lên mạng, xem người ta ở ngoài làm gì rồi
cố gắng làm giống như thế ở Việt Nam . Đại đa số bắt chước mà vẫn còn sai. Sai
vì không hiểu vấn đề đến nơi đến chốn. Không có sáng tạo thì làm sao gọi là
tiến sĩ được. Cả một nền học thuật chỉ bắt chước mà cho ra lò cả ngàn tiến sĩ
mỗi năm. Đó là một nền học thuật ăn theo, dỏm.
Còn luận án thì thế nào?
Cũng công thức nhập đề – thân bài – kết luận như ai. Nhưng đọc kỹ thì không
khỏi phì cười.
Phần nhập đề thí sinh hay nói đúng hơn là người viết mướn tha hồ dịch-cắt-dán từ
các nguồn trên internet, có khi đem cả kiến thức từ sách giáo khoa thế kỷ 19,
những mớ thông tin chẳng liên quan gì đến đề tài. Dân gian có câu “nói dai, nói dài, nói
dở”thật
là thích hợp cho luận án tiến sĩ.
Phần phương pháp thì chẳng có gì để đọc, vì họ chủ yếu là ngụy tạo. Ngụy tạo số
liệu thì làm sao dám viết chi tiết phương pháp được. Vả lại, người viết mướn cũng
đâu có trình độ chuyên môn để đi chuyên sâu vào phương pháp. Đến phần kết quả
là khôi hài nhất. Một chuỗi bảng số liệu. Một chuỗi đồ thị. Điều khôi hài là đồ
thị làm từ bảng số liệu. Hai cách trình bày một thông tin! Chưa hết, thí sinh
còn bồi thêm câu diễn giải dưới bảng số hay đồ thị. Tức là 3 cách trình bày chỉ
nói lên một thông tin.
Người ta cần số trang sao cho đủ nên phải làm như thế. Thừa thải? Không thành vấn
đề. Vấn đề là làm cho đủ số trang theo quy định của Bộ. Sai sót? Đây đâu phải
là công trình khoa học mà quan tâm đến sai sót. Đến phần bàn luận là một tràng
từ ngữ bay múa, những ý tưởng hỗn độn, chẳng đâu vào đâu.
Những gì Gs Tuấn chỉ cách viết bài báo khoa học không áp dụng ở đây. Không cần đến logic luận. Nó y như là cái thùng lẩu thập cẩm. Có lẽ vài bạn đọc chưa quen sẽ nói tôi cường
điệu hóa vấn đề. Các bạn hãy vào thư viện trường y mà đọc xem các luận án tiến sĩ có xứng đáng cái danh xưng cao quý đó hay không. Người ta xem đó là những “luận án tiến sĩ” có mã số, có bìa đỏ, được lưu giữ cẩn thận. Nhưng tôi xem đó là những chứng cứ hùng hồn nhất cho một thời đại nhiễu nhương trong học thuật. Những kẻ đã, đang và sẽ có bằng tiến sĩ từ những cách học dỏm đó sẽ đi vào lịch sử nước nhà như là những tiến sĩ giấy, những con vi khuẩn làm ô uế nền học thuật nước nhà.
Những gì Gs Tuấn chỉ cách viết bài báo khoa học không áp dụng ở đây. Không cần đến logic luận. Nó y như là cái thùng lẩu thập cẩm. Có lẽ vài bạn đọc chưa quen sẽ nói tôi cường
điệu hóa vấn đề. Các bạn hãy vào thư viện trường y mà đọc xem các luận án tiến sĩ có xứng đáng cái danh xưng cao quý đó hay không. Người ta xem đó là những “luận án tiến sĩ” có mã số, có bìa đỏ, được lưu giữ cẩn thận. Nhưng tôi xem đó là những chứng cứ hùng hồn nhất cho một thời đại nhiễu nhương trong học thuật. Những kẻ đã, đang và sẽ có bằng tiến sĩ từ những cách học dỏm đó sẽ đi vào lịch sử nước nhà như là những tiến sĩ giấy, những con vi khuẩn làm ô uế nền học thuật nước nhà.
Dỏm có nghĩa là người thầy hướng dẫn cũng dỏm. Sự suy thoái của giáo dục y khoa
là một chu kỳ bắt đầu từ người thầy. Sự suy đồi của người thầy bắt đầu từ những
ông quan cách mạng. Dưới mắt của quan cách mạng, hồng quan trọng hơn
chuyên, đảng viên quan trọng hơn người ngoài đảng. Vì thế chúng ta không
ngạc nhiên sau 1975 có những vị mang danh “giáo sư” mà kiến thức còn thua cả
bác sĩ gia đình, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy có “giáo sư” đi tuyên truyền
cho xuyên tâm liên trị bá bệnh, bo bo bổ dưỡng hơn gạo. Ngày nay, kẻ bất tài
nhưng có đảng tịch thì vẫn được cất nhắc làm thầy, được “tạo điều kiện” làm tiến
sĩ. Có người được “cơ cấu” (một danh từ mới) chức trưởng khoa, giám
đốc bệnh viện rồi, “tổ chức” (cũng là một từ mới) sẽ
tìm cho họ cái bằng tiến sĩ.
Bằng tiến sĩ vừa là phương tiện, vừa là cứu cánh trong cái nền học thuật nhếch nhác
hiện nay. Bằng tiến sĩ nó tầm thường đến nỗi người ta nhạo báng ra đường gặp
tiến sĩ. Nó rẻ
tiền vì chúng ta biết rằng bằng tiến sĩ của Việt Nam chỉ là bằng dỏm, không bao giờ xứng đáng với danh vị đó. Không dỏm thì cái bằng đó cũng chỉ là thứ được cấu thành từ những giả tạo, những “nghiên cứu” loại rác rưởi khoa học, những dữ liệu có được từ vi phạm y đức. Bằng tiến sĩ của Việt Nam chỉ là thứ rác rưởi trong thế giới học thuật ngay chính trên đất nước Việt Nam .
tiền vì chúng ta biết rằng bằng tiến sĩ của Việt Nam chỉ là bằng dỏm, không bao giờ xứng đáng với danh vị đó. Không dỏm thì cái bằng đó cũng chỉ là thứ được cấu thành từ những giả tạo, những “nghiên cứu” loại rác rưởi khoa học, những dữ liệu có được từ vi phạm y đức. Bằng tiến sĩ của Việt Nam chỉ là thứ rác rưởi trong thế giới học thuật ngay chính trên đất nước Việt Nam .
Thế là chúng ta có thầy dỏm. Thầy dỏm đào tạo ra trò dỏm. Trò dỏm đào tạo tiếp trò
dỏm. Sẽ không lâu chúng ta sẽ có nhiều thế hệ tiến sĩ dỏm, giáo sư dỏm. Và
chúng ta sẽ phải trả giá cho những cái dỏm đó. Thực ra, bệnh nhân đang trả giá
cho cái dỏm. Cái giá mà bệnh nhân phải trả cho hệ thống y khoa hám danh này là
cái chết.
Nhiệm vụ của người bác sĩ lâm sàng trước hết là chữa trị bệnh nhân. Nhiệm vụ đó
đòi hỏi kỹ năng lâm sàng tốt. Ngoài ra, còn có sự cảm thông, chia sẻ với bệnh nhân.
Nhưng bác sĩ hám danh ngày nay chỉ chạy theo bằng cấp dỏm, làm nghiên cứu dỏm,
gây tác hại cho bệnh nhân. Họ không trao dồi kỹ năng lâm sàng. Họ không có thì
giờ để đọc sách. Họ thừa thì giờ đi nhậu để làm “ngoại giao”. Thiếu kiến thức
lâm sàng. Chẩn đoán sai. Làm xét nghiệm không cần thiết. Đối diện với bệnh nhân
thì chỉ hách dịch ra lệnh chứ không biết nói. Hậu quả là chẩn đoán sai,điều trị
sai, bệnh nhân chết. Nếu còn sống thì gặp biến chứng, hoặc thương tật suốt đời.
Dỏm trong các ngành khác như khoa học xã hội thì có thể không gây tác hại nguy hiểm,
nhưng dỏm trong y khoa thì hậu quả khôn lường.
Rất tiếc là các quan cách mạng không nhìn thấy hay không nhìn thấy điều hiển nhiên đó để cho sự hám danh và dỏm lên ngôi. Họ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử nước nhà.
Bệnh hám danh trong y giới ngày nay đã trở thành đại dịch.Có lần trong một hội thảo chuyên môn, một anh kia tên là D, học y trước 1975 nhưng ra trường sau 1975, thuộc thành phần răng đen mã tấu – “cách mạng 75″ như người Sài Gòn vẫn nói, được người ta giới thiệu anh ta là TS, nhưng khi anh ta lên bục giảng câu đầu tiên anh ta nói là chỉnh người giới thiệu, rằng chức danh của anh ta bây giờ là PGS. Chính xác hơn là PGS-TS-BS. Cả hội trường có phần sững sờ trước sự khoe khoang hợm hĩnh.
Rất tiếc là các quan cách mạng không nhìn thấy hay không nhìn thấy điều hiển nhiên đó để cho sự hám danh và dỏm lên ngôi. Họ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử nước nhà.
Bệnh hám danh trong y giới ngày nay đã trở thành đại dịch.Có lần trong một hội thảo chuyên môn, một anh kia tên là D, học y trước 1975 nhưng ra trường sau 1975, thuộc thành phần răng đen mã tấu – “cách mạng 75″ như người Sài Gòn vẫn nói, được người ta giới thiệu anh ta là TS, nhưng khi anh ta lên bục giảng câu đầu tiên anh ta nói là chỉnh người giới thiệu, rằng chức danh của anh ta bây giờ là PGS. Chính xác hơn là PGS-TS-BS. Cả hội trường có phần sững sờ trước sự khoe khoang hợm hĩnh.
Tôi
cũng ngạc nhiên khi biết anh ta có bằng tiến sĩ và càng sững sờ khi biết anh ta
là PGS. Hỏi đồng nghiệp làm cùng bệnh viện với anh ta, ai cũng cười. Nghiên cứu
là con số 0. Lâm sàng? Đã có nhiều bệnh nhân thành nạn nhân của anh ta. Thế là biết.
Tất cả chỉ là mua bán. Thế mới biết cái cơ chế có khả năng nhào nặn một con
người có tư cách thành một kẻ háo danh hợm hĩnh. Và chỉ trong một thời gian ngắn. Ngày nay có
hàng chục ngàn người như thế. Nó đã thành một đại dịch. Dịch hám danh. Dịch hám bằng cấp.
Đại dịch hám danh và hám bằng cấp còn nguy hiểm đến bệnh nhân hơn các đại dịch H1N1
nhiều. Đại dịch hám danh không chỉ trong y giới mà còn lan tràn ra các địa hạt
khác ngoài xã hội. Ai cũng cố gắng tạo cho mình một cái danh xưng trước tên.
Ngày nào xã hội biết đến bác sĩ, kỹ sư, tiến sĩ, thạc sĩ, giáo sư … nhưng ngày nay
người ta còn gắn CN và Master trước tên mình. CN là cử nhân. Master là cao học.
Chưa bao giờ tôi thấy một sự háo danh quái đản như hiện nay. Trong y giới, người
ta còn gắn thêm TS-BS, hoặc PGS-TS-BS. Nếu có danh xưng gì khác như thầy thuốc
nhân dân, thầy thuốc ưu tú, người ta cũng gắn vào luôn. Nếu một người nông dân
không có bằng cử nhân thì họ được gọi là gì. Không là gì cả. Do đó, đại dịch
dịch hám danh nó phân chia xã hội thành những người có và những người không có.
Nó dẫn đến nạn kỳ thị. Kẻ có danh xem thường người không có danh. Vì thế người ta phải chạy
theo danh, phải mua danh bán tước.Đại dịch hám danh tạo ra
một thị trường mua bán tước danh, bằng cấp. Từ cấp trung ương đến địa phương,
hiện tượng mua bán bằng cấp xảy ra hàng ngày. Mua bán tước danh và bằng cấp là
hành động xem thường kỷ cương phép tắc trong học thuật. Vì thế dịch hám danh
không chỉ làm phân hóa, kỳ thị xã hội, mà còn làm hủy hoại nền học thuật quốc
gia.
Sau khi gặp bạn tôi gặp trong hội thảo tuần qua làm tôi có cảm hứng viết entry này tôi lên taxi về nhà. Trên đường về nhà bị kẹt xe, anh tài xế phải vất vả nhích từng cm. Mưa càng lúc càng nặng hạt. Đường xá ngập nước như trong cơn bão lụt. Ngay giữa thành phố có thời mang danh Hòn ngọc viễn đông. Anh tài xế cùng độ tuổi tôi lắc đầu ngao ngán. Anh nhìn tôi ái ngại vì quá trễ giờ. Chúng tôi nói chuyện đời. Anh chỉ vào con đường ngập nước và nói họ đang phá nát thành phố này.
Tôi đồng ý. Nhưng tôi muốn thêm rằng họ cũng đang hủy hoại nền học thuật nước nhà bằng cách tạo ra một đại dịch PGS-TS-BS.
NguyenDacSongPhuong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét